top of page
Tìm kiếm

Khi nghĩ đến việc thay đổi toàn bộ hệ thống toàn cầu, chúng ta dễ rơi vào cảm giác bất lực. Nhưng nếu quay về với những gì nằm trong tầm tay – thì ta mới thực sự cảm thấy mình có quyền lực

Kinh tế là một thuật ngữ quen thuộc trong đời sống hằng. Tất cả các hoạt động của chúng ta đều liên hệ đến kinh tế. Nhưng không phải ai cũng có thể có những cách hiểu đầy đủ về thuật ngữ này. Do đó, Ngày 21/05, tại Cà phê thứ Bảy Trẻ ở TP.HCM, Vcil Community đã tổ chức buổi chiếu phim tài liệu “Outgrowth the system”. "Outgrow the System" khám phá cách chúng ta có thể quay trở lại bản chất của thuật ngữ “kinh tế” và hướngđến tái thiết kế một hệ thống kinh tế quản lý có trách nhiệm các nguồn tài nguyên khan hiếm của chúng ta.



Qua bộ phim này, Vcil Community muốn dân chủ hóa cuộc trò chuyện xung quanh nền kinh tế, sinh thái và dân chủ. Kinh tế phải là một chủ đề có thể tiếp cận được đối với tất cả mọi người, không chỉ giới hạn ở các chuyên gia. 


Cũng trong buổi hôm nay, chúng tôi đã có những cuộc thảo luận đầy thú vị xung quanh chủ đề kinh tế, rồi từ đó, cuộc trao đổi đã mở rộng ra về sự phát triển, tài chính và thương mại toàn cầu hay câu chuyện cũ của nền kinh tế tư bản, và những câu chuyện mới của nền kinh tế vị nhân sinh và môi sinh.



Bài viết này sẽ chia sẻ lại những nội dung chính diễn ra trong buổi chiếu phim này.


Câu hỏi trao đổi 1: Bộ phim đã chia sẻ nhiều mô hình kinh tế thay thế khác nhau trên thế giới : kinh tế donut, kinh tế đoàn kết, doanh nghiệp do người lao động làm chủ, thế giới phi lợi nhuận, hợp tác xã,… Ở Việt Nam, kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn đang được thảo luận nhiều, vậy thì mô hình nào sẽ phù hợp với Việt Nam? Mặc dù ý tưởng về Kinh tế tuần hoàn rất tốt, nhưng liệu đó có phải là phương thức để tăng tính cạnh tranh và bán nhiều hàng hoá hơn? Đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang muốn tăng trưởng GDP trên hai con số, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh?


Khi nhắc đến việc “xanh hoá” nền kinh tế, ôtô điện đã trở thành một trong những xu yếu của thời đại. Nhưng khi đặt câu hỏi liệu xe xanh và xe điện có thực sự giải quyết vấn đề môi trường và rác thải, câu trả lời có thể khiến chúng ta thất vọng. Vì để sử dụng được xe điện, nó cần những viên pin thiết kế riêng cho nó. Và câu hỏi đặt ra tiếp là nó được tạo ra từ nguyên liệu nào, và các nguyên liệu đó đến từ đâu? Theo Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA), triển vọng toàn cầu về thị phần bán ôtô điện dựa trên các chính sách hiện hành và mục tiêu đã tăng lên 35% vào năm 2030, từ mức dưới 25% triển vọng trước đó. Dự kiến đến 2035, tổng số xe ôtô điện trên thế giới sẽ đạt 125 triệu chiếc [1] Vậy đặt ở một quy mô lớn như thế liệu có bền vững?


Trong bộ phim, Timothée Parrique là một nhà kinh tế học, chuyên gia về thoái tăng trưởng đã chia sẻ: “Chúng ta cần quá trình thoái tăng trưởng, giống như một "chế độ ăn kiêng", áp dụng cho các nền kinh tế giàu có, thu nhập cao, GDP lớn, để họ có thể đạt được trạng thái bền vững, ổn định, nơi có thể thịnh vượng mà không cần tăng trưởng.” Tức là thoái tăng trưởng chỉ áp dụng cho các nước giàu, chứ không dành cho các nước thu nhập thấp, đang phát triển. Bởi vì các nước phát triển đã đi qua giai đoạn tăng trưởng rồi, trong khi đó các nước đang phát triển thì vẫn chưa tăng trưởng đủ. Giống như một người thiếu dinh dưỡng thì phải ăn thêm cho đủ cân, còn một người đã thừa cân thì phải giảm khẩu phần ăn lại vậy.


Vậy thì câu hỏi đặt ra tiếp theo là liệu tăng trưởng xanh có khả thi không? Bộ phim đã đề cập tới hơn 900 nghiên cứu thực nghiệm, và kết quả của những nghiên cứu này đã chỉ ra rằng: tăng trưởng xanh - thứ mà các chính trị gia và các nhà lãnh đạo tập đoàn tin vào thực chất không tồn tại.


Do đó, câu hỏi các nền kinh tế cần đặt ra nên là: Chúng ta cần tăng trưởng bao lâu nữa? Đến mức nào thì nên dừng lại? Thay vì đặt ra câu hỏi như trên, chúng ta đang chứng kiến sự nghiện tăng trưởng, mà quên mất rằng sự tăng trưởng này diễn ra ở cấp số nhân. Tăng trưởng 8% của 11.500 tỉ, và thêm 10% vào năm sau tương đương với việc lãi kép, liên tục nhân đôi. Càng tăng trưởng thì sự tiêu thụ cũng phải gia tăng với tốc độ tương đương, đồng nghĩa với việc tốc độ khai thác tự nhiên cũng cần phải tăng tương đương.


Lại xét đến nền kinh tế hiện tại: đó là nền kinh tế tuyến tính (linear economy), tức là nền kinh tế bao gồm 5 bước: khai thác tự nhiên, chế tác, phân phối, sử dụng và quăng bỏ. Toàn bộ những gì chúng ta đang sử dụng ngày nay, từ chiếc ghế, điện thoại, áo quần, xe cộ… tất cả đều đến từ tự nhiên. Kết quả của nền kinh tế này chính là rác thải, không tái sử dụng được (hoặc tái sử dụng rất it). Tự nhiên không được trả lại những gì đã bị lấy đi, do đó không được phục hồi. Sự tuần hoàn trong tự nhiên bị cắt đứt. Đến một ngày nào đó, tài nguyên sẽ bị khai thác hết.


Khi xét đến một nền kinh tế tuần hoàn thực sự, thì mọi thứ chúng ta sử dụng sẽ phải quay trở về với đất mẹ, tạo thành một vòng tuần hoàn. Ở các cộng đồng bản địa, hay miền quê Việt Nam nhiều năm trước, rác không hề tồn tại. Nơi nào không có rác, đó chính là nơi nền kinh tế tuần hoàn tồn tại. Trước đây, khi đi chợ, một nắm xôi được gói cần thận bằng lá chuối, muỗng được làm từ lá dừa. Sử dụng xong thì quăng bỏ ở đâu cũng được. Và sự tuần hoàn được diễn ra.


Trong khi đó, lấy ví dụ về tiêu dùng và sử dụng cà phê ở thành phố. Cà phê được trồng ở các vùng quê, sau đó được chuyển đến tiêu thụ ở thành phố. Phần bã cà phê, lẽ ra cần phải quay trở lại với đất đai, để tạo trở thành phân bón cho đất, làm thức ăn cho vi sinh vật, thì lại trở thành rác hữu cơ, và cuối cùng nằm ở trong những bãi rác của thành phố. Một thứ vốn dĩ trở thành một thứ hữu ích cho tự nhiên, nay trở thành rác, thành gánh nặng dưới tên gọi rác thải hữu cơ.


Nền kinh tế chỉ thật sự tuần hoàn khi toàn bộ chuỗi cung ứng, phân phối, tiêu dùng và đào thải phải tuần hoàn. Phải làm sao toàn bộ chuỗi trên đều quay vòng, thì đó mới tuần hoàn thật sự.


Trong bối cảnh xã hội quan tâm đến yếu tố xanh trong doanh nghiệp, ai cũng ý thức về nhận thấy được tầm quan trọng của sản phẩm xanh, dịch vụ xanh, thì bản thân từ “xanh” cũng là phương tiện để tăng giá cả hàng hoá lên. Câu hỏi cần đặt ra là làm thế nào để chúng ta có thể phân biệt được đâu là doanh nghiệp thực chất, đâu là doanh nghiệp khoác áo xanh bằng cách tẩy xanh (greenwashing). Đây cũng là câu hỏi chúng ta cần tự vấn để đưa ra những lựa chọn phù hợp.


Nói tóm lại, kinh tế xanh và tăng trưởng xanh không tồn tại song song; còn kinh tế tuần hoàn chỉ phát huy toàn bộ giá trị và ý nghĩa khi toàn bộ chuỗi cung ứng đều phải tuần hoàn; mỗi người cần có ý thức để nhận diện, lựa chọn và ủng hộ những doanh nghiệp xanh thật sự, thay vì bị dắt mũi bởi những doanh nghiệp (greenwashing).


----

Câu hỏi thảo luận 2: Bộ phim cho rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến các vấn đề của nền kinh tế đó là do các tập đoàn đa quốc gia, liệu quan điểm này có đúng không? Có rốt ráo khi nhận định không? Hay đằng sau đó còn có những lí do khác nữa? Điều gì đã trao quyền quá lớn cho các tập đoàn đó?

Mình thấy chính phủ có quyền hạn lớn hơn doanh nghiệp nhiều, và thường đóng vai trò điều tiết kinh tế. Tại sao Ecuador bị kiện vì cấm khoan dầu ở rừng Amazon? Mình chưa hiểu về câu chuyện này được nhắc đến trong phim



Các quốc gia như Ecuador, Boliviar, New Zealand, Ấn Độ và Urganda những quốc gia đã công nhận quyền của tự nhiên. Trong đó, Ecuador là quốc gia đầu tiên trên thế giới đưa luật này vào trong hiến pháp, do đó việc khoan dầu ở Amazon là vi hiến. Vì thế quốc gia này đã cấm việc khoan dầu trong khu vực này. Sau đó quốc gia này đã bị kiện và Ecuador phải trả số tiền tương đương toàn bộ ngân sách y tế của họ. Trong các hiệp định thương mại quốc tế (Free Trade Agreement – FTA), các điều khoản về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư nước ngoài ISDS (Investor–state dispute settlement) đều được cài cắm vào đó, cho phép các tập đoàn có thể kiện chính phủ các nước. Cho nên, thực tế là các doanh nghiệp đa quốc gia có quyền hạn lớn hơn chính phủ, chứ không phải ngược lại.


Để Samsung, Lego, Intel lựa chọn đầu tư, Việt Nam đã phải trải thảm đỏ, cạnh tranh với các quốc gia khác về các quy định đầu tư, thuế quan. Tức là các chính phủ phải “pitching” để được các tập đoàn này đầu tư vào.


Điều này cho thấy các tập đoàn đa quốc gia lớn hơn các chính phủ rất nhiều. Đây là kết quả từ quá trình tài chính hoá, lưu thông tự do dòng vốn quốc tế, sự dịch chuyển từ tư bản công nghiệp (industrial capitalism) sang tư bản tài chính (financial capitalism), rồi chuyển tiếp sang chủ nghĩa tân tự do (neo-liberalism). Điều này khiến các quốc gia ngày càng hội nhập sâu với thế giới, tạo điều kiện để các tập đoàn đa quốc gia ngày càng lớn mạnh hơn.


LỊCH SỬ TÀI CHÍNH THẾ GIỚI VÀ THƯƠNG MẠI TOÀN CẦU


Sự ra đời của GDP và mục đích ban đầu

Chỉ số Tổng sản phẩm quốc nội (GDP – Gross Domestic Product) ra đời sau cuộc Đại Khủng Hoảng Kinh tế năm 1929–1933, một trong những giai đoạn suy thoái nghiêm trọng nhất trong lịch sử kinh tế thế giới. Trước khủng hoảng, chính phủ Mỹ và nhiều nước khác không có công cụ thống kê hiệu quả để đo lường quy mô hay tình trạng thực sự của nền kinh tế. Điều này khiến việc đưa ra các chính sách điều tiết kinh tế trở nên mơ hồ và thiếu cơ sở.


John Maynard Keynes, nhà kinh tế học người Anh, là một trong những người tiên phong đặt nền móng lý thuyết cho việc sử dụng các chỉ số kinh tế vĩ mô nhằm can thiệp và ổn định nền kinh tế thông qua chính sách tài khóa và tiền tệ. Mặc dù chính Keynes không trực tiếp tạo ra GDP, nhưng tư tưởng của ông đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc phát triển các công cụ đo lường kinh tế như GDP [2].


Người trực tiếp xây dựng và chuẩn hóa chỉ số GDP là Simon Kuznets, một nhà kinh tế gốc Nga làm việc tại Mỹ. Năm 1934, Kuznets trình bày báo cáo đầu tiên về đo lường thu nhập quốc dân trước Quốc hội Mỹ. Sau đó, trong bối cảnh Thế chiến thứ hai, nhu cầu thống kê và huy động nguồn lực cho chiến tranh càng thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện hệ thống tính toán GDP.


Mục tiêu ban đầu của GDP là:

·       Cung cấp một chỉ số đo lường quy mô và hiệu suất của nền kinh tế quốc gia trong một khoảng thời gian cụ thể.

·       Là công cụ hỗ trợ chính phủ trong việc thiết kế các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tài khóa (thu – chi ngân sách) và chính sách tiền tệ (quản lý lãi suất, cung tiền).

·       Giúp so sánh mức độ phát triển giữa các thời kỳ và giữa các quốc gia.


GDP và vai trò trong kiến tạo trật tự kinh tế toàn cầu sau Thế chiến thứ hai

Sau Thế chiến II, thế giới đứng trước nhu cầu cấp thiết là tái thiết các nền kinh tế bị tàn phá và ngăn chặn sự lặp lại của những cuộc khủng hoảng sâu sắc như cuộc Đại Khủng Hoảng 1929. Trong bối cảnh đó, các cường quốc, đứng đầu là Mỹ và Anh, đã họp tại Hội nghị Bretton Woods năm 1944 để thiết lập một trật tự kinh tế và tài chính toàn cầu mới.


John Maynard Keynes đóng vai trò quan trọng trong việc kiến tạo mô hình này. Dù đề xuất ban đầu của Keynes là thành lập một ngân hàng trung ương toàn cầu với đồng tiền mới mang tên bancor, cuối cùng đề xuất của Mỹ đã thắng thế: đồng đô la Mỹ (USD) trở thành đồng tiền dự trữ toàn cầu, được neo vào vàng, còn các đồng tiền khác neo vào USD [3].


Cũng từ hội nghị này, hai thể chế tài chính quốc tế quan trọng ra đời [4]:

  • World Bank (Ngân hàng Thế giới) – ban đầu là Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế, với nhiệm vụ cho vay để tái thiết các quốc gia bị tàn phá bởi chiến tranh.

  • IMF (Quỹ Tiền tệ Quốc tế) – nhằm giải quyết các vấn đề mất cân đối cán cân thanh toán, hỗ trợ ổn định tiền tệ và tỷ giá cho các quốc gia thành viên.


Để đánh giá năng lực kinh tế và khả năng vay vốn của các nước, GDP được sử dụng như một chỉ số chuẩn để đo lường quy mô và mức độ “phát triển” của một nền kinh tế. Đây là công cụ giúp IMF và World Bank đưa ra quyết định hỗ trợ, cũng như xây dựng các kế hoạch tăng trưởng dựa trên con số cụ thể.


Mỹ, đồng đô la và sự vận hành của hệ thống tiền tệ toàn cầu

Sau chiến tranh, Mỹ trở thành quốc gia nắm giữ quyền lực kinh tế lớn nhất, chiếm phần lớn trữ lượng vàng toàn cầu và là trung tâm sản xuất chính. Mỹ bắt đầu cho vay các nước châu Âu như Anh và Pháp để tái thiết, và các quốc gia này chọn nhận USD, từ đó khiến đồng đô la trở thành đồng tiền chính trong thương mại quốc tế.


Tuy nhiên, hệ thống này nảy sinh một mâu thuẫn cấu trúc:

Để USD lưu thông toàn cầu và phục vụ thương mại, Mỹ phải duy trì thâm hụt cán cân thanh toán – tức là nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu. Nếu Mỹ ngừng thâm hụt, thế giới sẽ thiếu USD để giao dịch. Điều này tạo ra một nghịch lý lưu thông:

“Mỹ cần thâm hụt để thế giới có đô la – nhưng nếu thâm hụt quá mức, lại gây bất ổn nội tại.”

Năm 1971, Mỹ chính thức chấm dứt chế độ bản vị vàng (sự kiện “Nixon Shock”) và chấm dứt cam kết chuyển USD thành vàng. Từ đây, đồng USD trở thành tiền pháp định hoàn toàn, không gắn với bất kỳ tài sản nào, nhưng vẫn giữ vai trò là đồng tiền trung tâm của hệ thống tài chính toàn cầu, nhờ sự chi phối của Mỹ trong các định chế quốc tế như IMF và World Bank [5].


GDP, IMF, World Bank và trật tự không dân chủ

Mô hình phát triển dựa trên GDP được IMF và World Bank sử dụng để:

  • Định nghĩa “phát triển” là tăng trưởng kinh tế.

  • Xác định khả năng vay vốn, lãi suất, và điều kiện cải cách kinh tế của các quốc gia.

  • Áp dụng các chương trình điều chỉnh cơ cấu (Structural Adjustment Programs) cho các nước đang phát triển.


Tuy nhiên, hệ thống quản trị của IMF và World Bank lại vận hành theo cơ chế cổ phần, nơi mà quyền biểu quyết được phân chia theo mức độ góp vốn. Điều này dẫn đến tình trạng quyền lực tập trung chủ yếu vào một số ít quốc gia giàu có, đặc biệt là Mỹ – nước có tỷ lệ góp vốn áp đảo và có thể nắm quyền phủ quyết trong nhiều quyết sách quan trọng. Điều này tạo ra một trật tự tài chính toàn cầu thiếu dân chủ, khi các quốc gia nhỏ và đang phát triển – những nước chịu ảnh hưởng lớn nhất từ các chính sách điều chỉnh – lại không có tiếng nói thực sự trong quá trình ra quyết định [6], [7].


Sự trỗi dậy của Tân Tự Do (Neoliberalism) và vai trò của GDP

Từ thập niên 1980, khi chủ nghĩa Tân Tự Do (Neoliberalism) trỗi dậy dưới thời Tổng thống Ronald Reagan ở Mỹ và Thủ tướng Margaret Thatcher ở Anh, GDP càng được củng cố như mục tiêu trung tâm trong các chính sách phát triển. Các quốc gia muốn vay vốn từ IMF và World Bank bị buộc phải chấp nhận hàng loạt điều kiện cải cách sâu rộng: tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước và dịch vụ công, dỡ bỏ các quy định bảo vệ thị trường nội địa, cắt giảm chi tiêu công, bao gồm y tế, giáo dục và an sinh xã hội, đồng thời mở cửa hoàn toàn thị trường thương mại và dòng vốn. Những chính sách này được xem như con đường duy nhất để đạt tăng trưởng kinh tế, bất chấp những hệ quả tiêu cực như gia tăng bất bình đẳng xã hội, suy giảm phúc lợi cộng đồng, mất kiểm soát tài nguyên, và làm xói mòn quyền tự chủ của các quốc gia yếu thế.


Cuối thế kỷ 20, đặc biệt là sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, những tư tưởng của chủ nghĩa Tân Tự Do được hệ thống hóa thành một khuôn mẫu chính sách có tên gọi Washington Consensus (Đồng thuận Washington) [9]. Bộ nguyên tắc này nhanh chóng trở thành tiêu chuẩn toàn cầu mà các quốc gia đang phát triển – nhất là các nước nhận viện trợ hoặc vay vốn từ phương Tây – buộc phải tuân theo. Dưới danh nghĩa “cải cách”, Washington Consensus khuyến khích mạnh mẽ việc tự do hóa thương mại, mở cửa thị trường cho dòng vốn nước ngoài, tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước, giảm chi tiêu công, và thu hẹp vai trò của nhà nước trong nền kinh tế. Trên thực tế, những chính sách này đã mở đường cho dòng vốn tư bản tài chính và các tập đoàn đa quốc gia xâm nhập vào các nền kinh tế yếu hơn. Khi vai trò của nhà nước bị thu hẹp, các doanh nghiệp lớn lại ngày càng tích lũy thêm quyền lực và ảnh hưởng chính trị, trong khi các cộng đồng địa phương và tầng lớp yếu thế dần đánh mất khả năng kiểm soát và tham gia vào các quyết định liên quan đến tương lai của chính họ [9].


Từ sản xuất thực đến tài chính ảo: Sự dịch chuyển của quyền lực

Nếu một thế kỷ trước, các công ty lớn nhất thế giới là những tập đoàn sản xuất vật chất – như thép, dầu mỏ, đường sắt – thì ngày nay, các doanh nghiệp giá trị cao nhất đều hoạt động trong lĩnh vực công nghệ và tài chính, dựa trên dữ liệu, thuật toán và thị trường chứng khoán. Các công ty như Apple, Microsoft, Amazon, hay Alphabet không còn sản xuất “vật thể” mà chủ yếu cung cấp “giải pháp kỹ thuật số”, dựa trên các tài sản phi vật thể như sở hữu trí tuệ, quyền truy cập và hệ sinh thái người dùng. Sự chuyển dịch này phản ánh một xu thế rộng hơn của chủ nghĩa tư bản: từ sản xuất thực sang tài chính hóa, nơi giá trị không nằm ở sản phẩm mà nằm ở khả năng kiểm soát luồng vốn và thông tin.


Điều này cho thấy một sự chuyển dịch sâu sắc: Từ chủ nghĩa tư bản sản xuất sang chủ nghĩa tư bản tài chính và kỹ thuật số.

Quyền lực của các tập đoàn đa quốc gia cũng vì thế mà vượt biên giới quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến:

  • Chính sách thuế,

  • Lao động,

  • Môi trường,

  • Văn hóa tiêu dùng,

  • Dữ liệu và thông tin của hàng tỷ người.


Cùng với đó là sự gia tăng quyền lực chính trị của các tập đoàn lớn. Tại nhiều nước, đặc biệt là Mỹ, để giành chiến thắng trong các cuộc tranh cử, các ứng viên chính trị phải phụ thuộc vào nguồn tài trợ khổng lồ từ doanh nghiệp. Sau khi đắc cử, các chính sách thường thiên về bảo vệ lợi ích của giới tài phiệt đã hậu thuẫn chiến dịch, thay vì phục vụ lợi ích số đông. Hệ quả là mô hình dân chủ đại diện ngày càng bị thao túng bởi các nhóm lợi ích, trong khi các cộng đồng yếu thế, người dân địa phương hay các quốc gia nhỏ hơn ngày càng mất tiếng nói trong các vấn đề mang tính toàn cầu.


Giới hạn sinh thái và khủng hoảng hệ thống

Tuy nhiên, khi hệ thống này ngày càng mạnh lên, nó cũng bắt đầu chạm tới các giới hạn không thể né tránh – đó là các giới hạn sinh thái của hành tinh. Tăng trưởng kinh tế liên tục, khai thác tài nguyên không ngừng nghỉ, mở rộng sản xuất và tiêu dùng không có điểm dừng đang đẩy Trái Đất đến trạng thái mất cân bằng nghiêm trọng. Biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, suy thoái hệ sinh thái và khủng hoảng đa dạng sinh học là những chỉ dấu rõ ràng cho thấy hệ thống hiện tại không còn bền vững. GDP – vốn chỉ đo lường sản lượng kinh tế mà không tính đến chi phí môi trường, chất lượng cuộc sống hay sự bất bình đẳng – đang trở thành một “la bàn sai hướng”.


Chính trong bối cảnh đó, ngày càng có nhiều tiếng nói kêu gọi xây dựng các mô hình kinh tế mới, công bằng hơn, bền vững hơn và đặt con người cùng hệ sinh thái vào trung tâm. Đây có thể là cơ hội để tái định hình lại vai trò của nhà nước, cộng đồng và thị trường trong việc tạo ra một nền kinh tế phục vụ sự sống thay vì hy sinh sự sống cho sự tăng trưởng.


Câu hỏi 3: Bộ phim có nhắc đến mô hình Kinh tế Donut. Làm sao để định lượng được các giới hạn sinh thái (cái trần)? Lý thuyết nói về trần và đáy của hệ sinh thái rất hay, nhưng trong thực tế thì việc đo lường cụ thể như thế nào lại chưa được làm rõ.


Mô hình Kinh tế Donut thường được đánh giá cao về mặt triết lý, nhưng cũng bị chỉ trích là thiếu tính thực tiễn, đặc biệt trong việc đưa ra công cụ đo lường cụ thể các giới hạn sinh thái hay mức độ công bằng xã hội. Hiện tại, xã hội vẫn chủ yếu dựa vào GDP để đánh giá sự phát triển. Dù GDP từng đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh quy mô kinh tế, nó chỉ đo được số lượng mà không phản ánh chất lượng cuộc sống hay mức độ bền vững. Thậm chí, có nhiều nghịch lý trong cách đo lường này: khi người ta bị bệnh và phải đi viện, chi tiêu y tế tăng, GDP cũng tăng; khi có người mất, tổ chức đám tang, chi tiêu tăng, GDP lại tăng; người dân tiêu thụ thức ăn nhanh hoặc phải mua máy lọc không khí vì ô nhiễm – tất cả đều góp phần làm tăng GDP. Những ví dụ này cho thấy rõ rằng GDP không thể phản ánh đầy đủ sự thịnh vượng hay hạnh phúc của một xã hội.

Vấn đề không chỉ nằm ở bản thân chỉ số GDP, mà còn ở cách chúng ta đo lường – vì cách đo lường quyết định cách hành động và định hình mục tiêu. Giống như trong giáo dục, nếu chỉ quan tâm đến điểm số thì học sinh có thể sẽ làm mọi cách để đạt điểm cao, kể cả gian lận, quay cóp hay hối lộ, mà không quan tâm đến việc học thật sự hay sự phát triển nhân cách. Chính vì vậy, xã hội cần những hệ thống đo lường mới, toàn diện và phản ánh đúng hơn những giá trị mà chúng ta hướng tới.

Bảng cân đối ECG (ECG Balance Sheet)
Bảng cân đối ECG (ECG Balance Sheet)

Một ví dụ tiêu biểu cho nỗ lực đó là mô hình “Kinh tế vì lợi ích chung” (Economy for the Common Good – ECG), đi kèm với hệ thống Bảng cân đối ECG (ECG Balance Sheet). Đây là một công cụ thực tiễn giúp đo lường sự phát triển không chỉ dựa trên lợi nhuận tài chính, mà còn đánh giá mức độ đạo đức, trách nhiệm xã hội, môi trường làm việc, sự đối xử với nhân viên, nhà cung cấp, và mức độ đóng góp cho cộng đồng. ECG không chỉ áp dụng cho doanh nghiệp mà còn có các phiên bản riêng cho thành phố, tổ chức phi lợi nhuận và các thực thể khác, giúp việc đo lường trở nên cụ thể và tạo điều kiện cho đối thoại đa bên một cách rõ ràng và minh bạch.


Hiện nay, đã có hàng ngàn thành phố ở châu Âu áp dụng mô hình ECG. Việc sử dụng hệ thống này còn đi kèm với những lợi ích thiết thực: doanh nghiệp đạt chuẩn ECG có thể được vay vốn với lãi suất ưu đãi từ ngân hàng, hoặc nhận được hỗ trợ từ các chính sách thuế và tài chính của chính quyền địa phương. Đây là một ví dụ rõ ràng cho thấy rằng việc đo lường các giá trị vượt ra ngoài lợi nhuận là hoàn toàn khả thi, và có thể mang lại lợi ích cụ thể cho cả doanh nghiệp lẫn xã hội.


Vì vậy, nếu câu hỏi đặt ra là: “Làm sao để đo lường thực tiễn các giới hạn sinh thái và nền kinh tế công bằng như mô hình Donut đề xuất?”, thì câu trả lời là có – thông qua những hệ thống như ECG, chúng ta đã và đang có những công cụ đo lường cụ thể, thực tiễn và đang được áp dụng rộng rãi.


Câu hỏi 4: Hành vi cá nhân có thể thay đổi, nhưng để tạo tác động ở quy mô toàn cầu thì cần hành động từ các chính phủ quốc gia, hoặc các tổ chức lớn như Liên Hợp Quốc – mà trên thực tế gần như không có. Trong khi đó, chỉ có các tổ chức phi chính phủ (NGO), cộng đồng, và một số cá nhân đang nỗ lực hành động. Liệu chừng đó có đủ để tạo ra thay đổi ở quy mô hành tinh hay không? Chưa kể, các nhóm hành động vì môi trường đôi khi cũng mâu thuẫn, xung đột với nhau – mỗi nhóm có cách tiếp cận riêng. Ngoài ra, nội dung các bộ phim về chủ đề này không còn mới. Hiện nay có rất nhiều bộ phim tương tự, và chắc chắn trong tương lai sẽ còn nhiều hơn. Vậy tại sao truyền thông lại dày đặc mà sự thay đổi xã hội vẫn còn rất ít, hoặc nếu có thì chỉ mang tính cục bộ?


Một
Một

Xem 100 bộ phim cũng sẽ không thay đổi được điều gì nếu ta không hành động. Truyền thông hay phim ảnh chỉ là công cụ khơi gợi nhận thức, nhưng nếu không chuyển hoá thành hành vi cụ thể thì cũng không mang lại thay đổi thực sự. Điều quan trọng là ta cần chọn lọc ra ý tưởng hay từ đó để mang về áp dụng trong đời sống thực.


Chúng ta hoàn toàn có thể thể hiện tiếng nói và quyền lực của mình qua các lựa chọn kinh tế và tiêu dùng. Việc chi tiền cho ai, sản phẩm nào, không chỉ là hành vi kinh tế, mà là hành vi chính trị. Chúng ta đang “bầu chọn” cho một hệ giá trị nào đó qua việc chi tiêu: hoặc là ủng hộ các doanh nghiệp phá rừng, đào mỏ, hủy hoại môi trường; hoặc là hỗ trợ các doanh nghiệp địa phương, có đạo đức, kinh doanh tử tế.


Tương tự, nguồn thu nhập của ta cũng là một lựa chọn. Chúng ta có thể chọn cách kiếm tiền phù hợp với giá trị của mình, và tiêu dùng sao cho có trách nhiệm.


Xem phim, đọc sách, hay nghiên cứu là để hiểu thêm về hệ thống, bức tranh lớn, và cách hệ thống vận hành – từ đó suy nghĩ xem mình có thể thay đổi điều gì. Tư duy toàn cầu, hành động địa phương (think global, act local) – đây là nguyên tắc thiết thực trong tầm tay. Hành động nhỏ không phải là vô nghĩa nếu nó được thực hiện từ hiểu biết về bức tranh tổng thể, và nhắm tới tác động dài hạn.


Một điều quan trọng khác là: các mô hình như Degrowth, Donut Economics, hay cả chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa xã hội… đều có gốc rễ từ phương Tây. Còn chúng ta – những người đến từ phương Đông – cần suy nghĩ về cách tạo ra mô hình riêng, mang tính bản địa, phù hợp với văn hóa và điều kiện xã hội của mình.


Chẳng hạn, với cái nhìn phương Tây, vùng Ladakh (thuộc dãy Himalaya, Ấn Độ) được xem là nghèo. Nhưng thực tế, trước khi bị “phát triển” theo cách của thế giới hiện đại xâm nhập, nơi này không có thất nghiệp, không có người vô gia cư, không có ăn xin. Trong khi đó, các quốc gia phát triển ở phương Tây lại có tỷ lệ trầm cảm, tự tử cao, giá nhà ở đắt đỏ, người vô gia cư và ăn xin tồn tại ở khắp nơi. Đây là một lời nhắc rằng “phát triển” không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với “tốt đẹp”, và cách tiếp cận phương Tây không nên là mẫu số chung cho toàn cầu.


Thế giới có nhiều con đường khác nhau, và không nên áp đặt một mô hình duy nhất cho mọi nơi, bất chấp khác biệt văn hoá và điều kiện địa phương. Ví dụ: trong văn hoá Nho giáo xưa, các giá trị như nhân – nghĩa – lễ – trí – tín được đề cao. Thương nhân bị coi là tầng lớp thấp, gọi là “con buôn”, bởi vì tiền không phải là thước đo chính yếu. Ngược lại, trong chủ nghĩa tư bản, đồng tiền là trung tâm, và người giàu thường được kính trọng, bất kể họ kiếm tiền như thế nào. Điều này cho thấy các xã hội khác nhau có những hệ giá trị khác nhau – và chúng ta cần tôn trọng sự đa dạng đó.


Thay vì chỉ trích hay chia rẽ nhau vì khác biệt, chúng ta cần học cách tôn trọng nhiều giải pháp khác nhau, tìm điểm chung để cùng đi tiếp và hợp tác. Thay đổi sâu sắc không thể đến từ xung đột, mà đến từ sự đoàn kết và hiểu biết.


Khi nghĩ đến việc thay đổi toàn bộ hệ thống toàn cầu, chúng ta dễ rơi vào cảm giác bất lực (powerless). Nhưng nếu quay về với những gì nằm trong tầm tay – những gì ta có thể thay đổi trong đời sống cá nhân, cộng đồng nhỏ – thì ta mới thực sự cảm thấy mình có quyền lực (empowered). Có nhiều cấp độ thay đổi: từ chính mình, tới gia đình, cộng đồng, xã hội. Hãy bắt đầu từ việc làm cho chính mình hạnh phúc, từ đó lan toả ra những người xung quanh.


Muốn thay đổi hệ thống, ta phải hiểu rằng ẩn sau mỗi hệ thống là một tập hợp những niềm tin và giá trị chi phối. Ví dụ, hệ thống kinh tế và giáo dục hiện đại thường thúc đẩy một hình mẫu “con người kinh tế” (homo economicus) – tham lam, lý tính, đặt lợi ích cá nhân lên trên hết, tối đa hoá lợi nhuận. Đây là cái nhìn bị ảnh hưởng bởi Adam Smith, nhưng thực ra người ta đã hiểu sai ông. Ngoài The Wealth of Nations, ông còn viết cuốn The Theory of Moral Sentiments, nói về lòng trắc ẩn và các cảm xúc đạo đức của con người.


Vấn đề không phải do bản chất con người là tham lam, mà là do hệ thống dạy ta phải sống như vậy, phải cạnh tranh như vậy để tồn tại. Vậy nếu ta tin rằng con người vốn rộng lượng, tử tế, muốn giúp đỡ lẫn nhau thì sao? Liệu chúng ta có thể thiết kế một hệ thống khác – dựa trên sự tin tưởng, hợp tác, lòng tốt – hay không?

 

Muốn thay đổi hệ thống, ta cần viết lại câu chuyện. Một câu chuyện mới về con người, về cách sống, cách làm kinh tế, cách quản trị, và cách tạo ra giá trị. Thay đổi hệ thống không thể chỉ là thay đổi cấu trúc, mà phải bắt đầu từ thay đổi niềm tin nền tảng.

Đó là một hành trình dài, nhưng là con đường thiết yếu nếu chúng ta thực sự muốn tạo nên một thế giới khác.

----

Những thảo luận và đóng góp khác từ người tham dự:

“Mình nhận ra vài điều thú vị trong bộ phim: “Chúng ta có đủ thực phẩm cho toàn bộ nhân loại, chứ thiếu như chúng ta tưởng. Vấn đề cốt lõi nằm ở chỗ cách phân bổ thiếu công bằng và loại thực phẩm được lựa chọn để trồng hàng loạt theo hướng thiếu bền vững, rồi chúng ta lại tạo ra quá nhiều food waste. Tất cả những điều này đến từ chủ nghĩa tiêu dùng và tối ưu hoá lợi nhuận.”



----

“Mình làm trong ngành marketing, và doanh nghiệp mình có rất nhiều chiến dịch để thúc đẩy tiêu dùng sản phẩm thông qua những triết lý tốt đẹp. Nhưng khi nhìn lại thì mục đích sau cùng cũng là để thúc đẩy tiêu dùng sản phẩm nhiều hơn. Khuyến khích điều đó liệu có tốt cho trái đất không? Mình cảm thấy bất lực vì luôn rơi vào trạng thái đấu tranh và mâu thuẫn vì công việc mình đang làm.


Nên lời khuyên và bài học mình rút ra được là mỗi người cần phát triển tư duy phản biện. Mục đích là để tự vấn về sự tiêu dùng của mình. Trước khi mua sản phẩm bất kì, cần đặt ra câu hỏi liệu mình có thật sự cần mua thứ này? Mình mua nó để làm gì? Sản phẩm này sẽ ở lại với mình bao lâu trong cuộc đời của mình?


Mình thấy một điều khá buồn cười đó là sự bền vững vốn dĩ đã có từ lâu rồi, như ví dụ ăn xôi gói trong lá chuối ở trên. Nhưng kinh tế tư bản lại nghĩ ra túi giấy tự phân huỷ cho nó bền vững hơn, nhưng khi phân huỷ lại tạo ra hạt vi nhựa. Rồi lại phải đau đầu tìm kiếm giải pháp cho vấn đề này. Cứ thế, vòng luẩn quẩn cứ tiếp diễn, không lối thoát.”

----

“Trong cuốn Tâm lý học về tiền, tác giả có nêu ra rằng nền kinh tế tư bản hiện tại đang thúc đẩy sự ganh đua, cạnh tranh lẫn nhau. Chúng ta không bao giờ hài lòng với vị trí hiện tại. Làm lương x triệu thì mong muốn 10x triệu, làm ở vị trí này thì mong muốn cạnh tranh để leo lên vị trí cao hơn. Chúng không bao giờ ngừng lại. Điều này khiến chúng ta không bao giờ hài lòng và hạnh phúc được.”

----



“Tôi là người Pháp, đã sống và làm việc ở Việt Nam trong nhiều năm. Trước đây tôi làm việc ở các tổ chức phi chính phủ, mà những tổ chức này phụ thuộc quá nhiều vào quỹ và tài trợ. Tôi không thích cách tiếp cận này. Bây giờ thì tôi đang làm việc để giúp đỡ các doanh nghiệp xã hội. Tôi có một vài chia sẻ sau:


Tôi thấy ở Pháp, các phong trào kinh tế thay thế khá phát triển, điển hình là các mô hình về kinh tế xã hội (social economy), kinh tế đoàn kết (solidarity economy)… nhưng những mô hình này vẫn là thiểu số, cùng lắm là chiếm 5% nền kinh tế. Tại sao? Tại vì người ta muốn kiếm tiền, muốn toà nhà to hơn, muốn nhiều thứ hơn, và lối tư duy này phổ biến ở mọi nơi.


Nếu bạn muốn thúc đẩy kiểu kinh tế mới, bạn có thể tự con đường riêng của mình, nhưng tôi có thể gợi ý hai cách.


Hiện nay có nhiều doanh nghiệp xã hội, những doanh nghiệp đang tồn tại trong nền kinh tế dòng chính (mainstream economy), họ đang cố gắng để thay đổi theo hướng tốt hơn. Bạn có thể đi vào các công ty này để thúc đẩy sự thay đổi lớn hơn. Bởi vì người tiêu dùng muốn có sự thay đổi, nhà đầu tư cũng muốn thấy những sự thay đổi. Thúc đẩy sự thay đổi này có thể cần dài hơn đấy, vì nó chiếm tận 90% hệ thống kinh tế.


Một cách khác đó là bạn bước ra khỏi hệ thống và tự tạo cho mình những mô hình kinh tế thay thế phù hợp với mình.


Hôm nay tôi rất vui vì có thể đến tham gia buổi chiếu phim này, tôi càng vui hơn khi đa phần người tham dự để có các cuộc đối thoại kinh tế là người trẻ. Cảm ơn tất cả các bạn.”

 
 
 

Comments


bottom of page